Bệnh viện Ung bướu Hà Nội - Nơi gửi gắm niềm tin và hy vọng
22/06/2024 - 03:37
Bệnh nhân ung thư cần nói cho bác sĩ điều trị biết nếu đã được chẩn đoán mắc bệnh cao huyết áp hoặc bệnh tim mạch. Vì bệnh ung thư hoặc việc điều trị ung thư có thể khiến bệnh lý tim mạch và cao huyết áp trở nên nặng hơn. Các bệnh lý này cũng có thể khiến việc điều trị ung thư trở nên khó khăn hơn hoặc khiến kế hoạch điều trị ung thư khó có thể kết thúc như dự định. Dù vậy, có nhiều cách mà bệnh nhân và đội ngũ y bác sĩ có thể cùng làm để bảo vệ trái tim và quản lý các bệnh lý này trong suốt quá trình điều trị ung thư.
Cao huyết áp còn được gọi là tăng huyết áp. Huyết áp là chỉ số đo được của lực đẩy dòng máu di chuyển khắp cơ thể. Huyết áp cho thấy khả năng hoạt động của trái tim để đẩy máu lưu thông trong hệ thống tuần hoàn.
Huyết áp được đo bằng 2 chỉ số. “Huyết áp tâm thu” là chỉ số cao nhất của huyết áp. Đó là áp lực khi tim của một người tống máu vào động mạch khi nó co bóp. “Huyết áp tâm trương” là chỉ số thấp nhất của huyết áp. Nó là lực của máu trong các động mạch ở giữa các lần co bóp của tim.
Nhiều người không biết họ bị cao huyết áp vì cao huyết áp không phải lúc nào cũng gây ra các triệu chứng. Do đó biết được chỉ số huyết áp của bản thân là rất quan trọng vì tăng huyết áp có thể dẫn tới các vấn đề như bệnh tim mạch.
Bệnh tim mạch là cách gọi chung của các vấn đề tim mạch khác nhau. Một số bệnh tim mạch là bẩm sinh, và một số bệnh tim mạch là mắc phải. Bệnh tim mạch phổ biến nhất tại Hoa Kỳ là bệnh động mạch vành. Đây là bệnh tim mạch xảy ra khi có sự tích tụ mảng bám trong động mạch làm chậm hoặc giảm lưu lượng máu nuôi dưỡng tim.
Một số loại bệnh tim mạch khác bao gồm:
· Nhịp tim không đều, hay còn gọi là loạn nhịp tim
· Dị tật tim, thường được chẩn đoán ngay sau khi sinh, nhung cũng có thể phát hiện muộn hơn khi còn nhỏ hoặc khi trưởng thành.
· Bệnh cơ tim, khi cơ tim phì đại hoặc dày hơn
· Nhiễm trùng ở tim
· Các vấn đề về van tim
Trong một số trường hợp, bệnh tim mạch có thể dẫn đến nhồi máu cơ tim, suy tim sung huyết hoặc các vấn đề nghiêm trọng khác.
Một số phương pháp điều trị ung thư có thể gây ra cao huyết áp và bệnh tim mạch. Bệnh nhân có nhiều khả năng mắc các vấn đề này và các tác dụng phụ khác liên quan đến tim khi điều trị ung thư nếu họ đã có các vấn đề về huyết áp và tim mạch từ trước. Việc điều trị ung thư có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm nhiều loại vấn đề về tim mạch.
Các phương pháp điều trị ung thư liên quan đến cao huyết áp hoặc bệnh tim mạch bao gồm:
Hóa trị liệu bằng các hoá chất nhóm Anthracycline. Các thuốc Anthracycline có thể gây ra các vấn về về tim mạch bao gồm: daunorubicin (Cerubidine), doxorubicin (Adriamycin, Doxil), epirubicin (Ellence), idarubicin (Idamycin), và valrubicin (Valstar).
Các thuốc hoá chất khác. Mitoxantrone (Novantrone) có thể gây ra các vấn đề về tim mạch. Cisplatin (Platinol) có thể gây ra cao huyết áp nghiêm trọng.
Xạ trị vùng ngực. Liều xạ trị cao tới những diện tích rộng của tim có thể gây nhiều vấn đề về tim. Xạ trị kết hợp với hoá chất cũng có thể làm tăng nguy cơ tổn thương tim.
Một vài loại liệu pháp nhắm trúng đích (thuốc đích). Nhiều liệu pháp nhắm trúng đích khác nhau có thể gây các vấn đề tim mạch hoặc cao huyết áp. Những thuốc đích này bao gồm: axitinib (Inlyta), bevacizumab (Avastin), dasatinib (Sprycel), lapatinib (Tykerb), pazopanib (Votrient), sorafenib (Nexavar), sunitinib (Sutent), và trastuzumab (Herceptin).
Đôi khi, giải pháp điều trị ung thư hiệu quả nhất có thể làm trầm trọng thêm bệnh cao huyết áp hoặc bệnh tim sẵn có. Tuy nhiên, có thể có những phương pháp điều trị hiệu quả tương đương mà ít ảnh hưởng đến tim mạch hơn. Các bác sĩ sẽ giúp bệnh nhân cân nhắc lợi ích và rủi ro của từng giải pháp điều trị.
Điều quan trọng đối với bệnh nhân ung thư là cần trao đổi với bác sĩ về tiền sử bệnh cao huyết áp và bệnh tim mạch của họ. Bác sĩ chuyên khoa ung thư sẽ làm việc với bác sĩ tim mạch hoặc bác sĩ tuyến cơ sở để giảm rủi ro về tim mạch trước, trong và sau khi điều trị.
Một số cơ sở lâm sàng có bác sĩ chuyên khoa ung bướu tim mạch. Các bác sĩ này chuyên điều trị bệnh tim cho những người mắc bệnh ung thư và những người đã điều trị ung thư trước đó.
Bệnh nhân nên cho bác sỹ ung thư xem sổ y bạ của mình để bác sỹ biết những loại thuốc huyết áp hoặc thuốc tim mạch đã được sử dụng. Ngoài ra, bệnh nhân cũng cần nói với bác sĩ tuyến cơ sở biết về điều trị ung thư hoặc các bệnh nghiêm trọng khác trước đây nếu có.
Các câu hỏi dưới đây giúp bệnh nhân trao đổi với bác sĩ điều trị ung thư về sức khoẻ tim mạch tổng quát.
Nếu bệnh nhân đã có bệnh cao huyết áp hoặc bệnh tim mạch có từ trước thì tốt nhất là bệnh tim mạch cần được kiểm soát tốt trước khi bắt đầu điều trị ung thư
Các bác sĩ cũng sẽ thực hiện đánh giá toàn diện về thể chất và tim mạch. Điều này sẽ cho các bác sĩ biết hệ tim mạch của bệnh nhân có khoẻ mạnh và hoạt động tốt hay không. Đánh giá này có thể bao gồm kiểm tra chức năng tim mạch.
Bác sĩ sẽ sử dụng một xét nghiệm hình ảnh gọi là siêu âm tim để kiểm tra các vấn đề về tim có từ trước của bệnh nhân. Các xét nghiệm khác về tim có thể bao gồm: chụp cộng hưởng từ tim (MRI) và chụp xạ hình tim (MUGA).
Hình 2: Chụp Xạ hình để đánh giá chức năng tim mạch
Dựa vào kết quả xét nghiệm này, bác sĩ có thể:
Làm giảm huyết áp. Nếu huyết áp của bệnh nhân quá cao, bác sĩ có thể giúp bệnh nhân kiểm soát huyết áp trước khi bắt đầu điều trị.
Điều chỉnh thuốc. Có thể có phản ứng tương tác giữa thuốc huyết áp hoặc thuốc tim mạch với thuốc điều trị ung thư mà bệnh nhân được kê đơn. Để ngăn chặn những phản ứng này, bác sĩ có thể khuyên bệnh nhân nên thay đổi thuốc hoặc thay đổi liều lượng thuốc điều trị huyết áp và tim mạch trong quá trình điều trị ung thư.
Bệnh nhân có thể được kê các loại thuốc bổ sung nhằm ngăn ngừa tổn thương thêm cho tim mạch trong quá trình điều trị. Chúng được gọi là “thuốc bảo vệ tim mạch”. Thuốc chẹn beta và thuốc ức chế men chuyển có thể hạ huyết áp. Thuốc dexrazoxane (Zinecard) có thể ngăn ngừa các vấn đề về tim do anthracycline.
Khẳng định xem bệnh nhân có thể trải qua phương pháp điều trị nhất định nào hay không. Ví dụ, bệnh tim có sẵn có thể làm tăng nguy cơ gây mê và phẫu thuật. Gây mê là phương pháp giúp bệnh nhân không cảm thấy đau trong quá trình phẫu thuật. Bác sĩ sẽ dùng các đánh giá tim mạch để đảm bảo bệnh nhân có thể được phẫu thuật an toàn.
Thực hiện một thủ thuật tim mạch. Một số ít trường hợp để đảm bảo an toàn có thể cần tiến hành phẫu thuật hoặc thủ thuật tim mạch trước khi điều trị ung thư. Ví dụ, các mạch vành bị tắc nghẽn có thể cần được thông tắc.
Khuyến cáo thay đổi lối sống. Bác sĩ có thể đề xuất thay đổi lối sống nhằm giảm huyết áp và giảm căng thẳng tim cho bệnh nhân. Các thay đổi này có thể bao gồm bỏ thuốc lá, ăn một chế độ ăn uống lành mạnh cho tim và hoạt động thể chất thường xuyên. Bệnh nhân nên trao đổi với bác sĩ trước khi bắt đầu một chương trình tập luyện.
Hình 3: Luyện tập là cần thiết để cải thiện sức khoẻ tim mạch nhưng cũng cần trao đổi với chuyên gia y tế
Các bác sĩ sẽ theo dõi chặt chẽ huyết áp và sức khoẻ tim mạch của bệnh nhân trong quá trình điều trị. Việc thao dõi có thể bao gồm:
Đo huyết áp thường xuyên. Các y bác sĩ có thể kiểm tra huyết áp của bệnh nhân trong các lần khám bệnh. Họ cũng có thể yêu cầu bệnh nhân đo huyết áp tại nhà.
Xét nghiệm hình ảnh. Xét nghiệm hình ảnh có thể phát hiện các tổn thương mới trong tim hoặc mạch máu do điều trị ung thư gây ra và có thể bao gồm một số xét nghiệm tương tự mà bệnh nhân được làm trước khi bắt đầu điều trị, chẳng hạn như siêu âm tim hoặc xạ hình tim.
Nếu một vấn đề về tim mạch xảy ra, bác sĩ điều trị ung thư có thể kiểm soát mà không cần gián đoạn hoặc thay đổi liệu trình điều trị ung thư. Hoặc bác sĩ có thể để xuất giảm liều hoặc khoảng thời gian điều trị, hoặc cũng có thể cần thay đổi phương pháp điều trị ung thư.
Sau khi điều trị ung thư hoàn tất, các bác sĩ sẽ tiếp tục theo dõi sức khoẻ tim mạch của bệnh nhân. Bệnh nhân có thể cần điều chỉnh huyết áp hoặc các thuốc tim mạch một lần nữa. Ví dụ, nếu phương pháp điều trị ung thư làm nặng tình trạng cao huyết áp thì sau khi kết thúc điều trị ung thư huyết áp của bệnh nhân có thể bị tụt. Điều đó có nghĩa là bệnh nhân có thể cần giảm liều thuốc điều trị cao huyết áp.
Các bác sĩ cũng có thể kiểm tra chức năng tim mạch sau khi điều trị kết thúc để tìm kiếm các dấu hiệu mới hoặc nặng lên của bệnh tim. Đó là do một số phương pháp điều trị ung thư ảnh hưởng đến tim không phải lúc nào cũng gây ra vấn đề ngay lập tức. Tác dụng phụ lâu dài có thể xảy ra sau khi điều trị hàng tháng hoặc hàng năm. Đánh giá và điều trị các tác dụng phụ này là một phần quan trong trong chăm sóc bệnh nhân ung thư.
· Phương pháp điều trị ung thư được đề nghị có thể ảnh hưởng đến bệnh cao huyết áp hoặc bệnh tim của tôi không?
· Có phương pháp điều trị hiệu quả nào khác ít ảnh hưởng đến huyết áp hoặc tim của tôi không?
· Có cách nào để giữ cho các vấn đề về huyết áp và tim của tôi không trở nên nặng hơn trong quá trình điều trị không?
· Tôi nên kiểm tra huyết áp bao lâu một lần trong quá trình điều trị ung thư? Tôi có nên theo dõi huyết áp tại nhà không?
· Huyết áp của tôi nên là bao nhiêu?
· Số huyết áp nào là quá cao hoặc quá thấp đối với tôi?
· Việc điều trị ung thư của tôi có gây ra thêm những vấn đề tim mạch nào cho tôi?
· Tôi nên theo dõi những triệu chứng nào của huyết áp cao hoặc các vấn đề về tim?
· Nếu tôi có bất kỳ triệu chứng mới hoặc trầm trọng hơn của bệnh cao huyết áp hoặc bệnh tim, tôi nên nói với ai? Và khi nào?
· Tôi có thể thực hiện những thay đổi lối sống nào để kiểm soát bệnh cao huyết áp hoặc bệnh tim trong và sau khi điều trị ung thư?
· Loại xét nghiệm sàng lọc nào sẽ được sử dụng để theo dõi tim của tôi trong và sau khi điều trị ung thư?
· Sau khi điều trị ung thư, huyết áp và tim của tôi cần được theo dõi trong bao lâu?
Nguồn: Dịch từ https://www.cancer.net/Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO)
Biên dịch: BSNT. Phạm Anh Đức, Đơn nguyên Xạ trị theo yêu cầu, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội
Hiệu đính: ThS.BS. Nguyễn Thanh Hằng, Phòng HTQT&NCKH, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội