Nang vú là các túi chứa dịch trong vú, thường là lành tính. Đôi khi bệnh nhân có thể tự phát hiện thấy nang vú, nhất là khi có triệu chứng đau vài ngày trước kỳ kinh. Đa số trường hợp nang vú không cần điều trị.
Đối với một số người bệnh giai đoạn cuối, bệnh ung thư vú có thể không biến mất hoàn toàn. Bệnh nhân có thể tiếp tục điều trị hóa chất, liệu pháp hormone hoặc các phương pháp điều trị khác để giúp kiểm soát và giảm các triệu chứng của bệnh. Vì vậy nhiều người bệnh sẽ cần học cách sống chung với bệnh ung thư vú.
Ung thư vú (UTV) là bệnh ung thư hay gặp nhất ở phụ nữ và là nguyên nhân gây tử vong thứ hai sau ung thư phổi tại các nước trên thế giới. Theo GLOBOCAN năm 2020, trên toàn thế giới có 2.261.41 trường hợp UTV mới mắc (chiếm 24.5% trong tổng số tất cả các loại ung thư ở nữ). Tại Việt Nam, theo nghiên cứu gánh nặng bệnh ung thư và chiến lược phòng chống ung thư quốc gia đến năm 2020 cho thấy UTV là bệnh có tỷ lệ mới mắc cao nhất trong các ung thư ở nữ giới, có tới 21.555 bệnh nhân UTV mới phát hiện.
1. Her2 là gì?
Trong cơ thể có một gen là: HER2, gen này tạo ra protein HER2. Ở vú, protein HER2 là một loại thụ thể trên các tế bào vú. Trong những trường hợp bình thường, các thụ thể HER2 giúp kiểm soát cơ chế phát triển, phân chia và tự sửa chữa của tế bào vú. Ở khoảng 25-30% bệnh nhân ung thư vú, gen HER2 có thể trở nên bất thường và tạo ra quá nhiều bản sao của chính nó (khuếch đại gen HER2). Các gen HER2 khuếch đại chỉ huy các tế bào vú tạo ra quá nhiều thụ thể (biểu hiện quá mức protein HER2) dẫn tới kích thích sự phân chia của tế bào không có sự kiểm soát và dẫn tới sự phát triển của ung thư vú.
Phẫu thuật đoạn nhũ (mastectomy) là phương pháp cắt toàn bộ tuyến vú để điều trị ung thư vú. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, phần da và quầng núm vú có thể được bảo tồn. Sau phẫu thuật này, bệnh nhân có thể lựa chọn tạo hình lại tuyến vú bằng cách đặt túi độn ngực (breast implant).
Ung thư vú (UTV) là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ và cũng là một trong những bệnh lý ác tính gây tử vong hàng đầu. Ở Việt Nam, chỉ trong năm 2018 đã phát hiện thêm 15.000 ca UTV mới và hơn 6.000 trường hợp tử vong do căn bệnh này.
Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ nhiều nước trên thế giới và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong số các nguyên nhân gây tử vong do ung thư ở nữ. Theo GLOBOCAN năm 2020, thế giới có khoảng 2.261.419 ca UTV mới mắc, chiếm 11,7% tổng số ca ung thư và có 684.996 ca tử vong, đứng thứ 5 trong số tử vong do ung thư. Tại Việt Nam, năm 2020, trong số ung thư ở nữ, số người mới mắc ung thư vú đứng hàng thứ nhất, với 21.555 người, chiếm 25.8% tổng số ca mắc ung thư. Với những tiến bộ của các phương pháp sàng lọc và chẩn đoán sớm, ngày càng có nhiều bệnh nhân ung thư vú được phát hiện ở giai đoạn sớm.
Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ nhiều nước trên thế giới và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong số các nguyên nhân gây tử vong do ung thư ở nữ. Theo GLOBOCAN năm 2018, trên toàn thế giới có 2.089.000 ca mới mắc và 627.000 ca tử vong do UTV, đứng hàng thứ 5 trong số tử vong do ung thư.
1. Chẩn đoán ung thư vú
1.1. Triệu chứng toàn thân và thực thể
a. Triệu chứng toàn thân
Giai đoạn sớm triệu chứng toàn thân cũng không rõ ràng, bệnh nhân có thể mệt mỏi, ăn kém, sút cân nhẹ. Khi bệnh lan tràn di căn xa các triệu chứng tăng lên rõ rệt như mệt mỏi nhiều, sút cân nhiều, một số bệnh nhân có thể sốt nhẹ.
Câu 1: Bệnh nhân mắc ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính thì tiên lượng bệnh có tốt không?
Trả lời:
Trước tiên chúng ta cần hiểu ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính là như thế nào. Bình thường trên bề mặt của các tế bào vú khỏe mạnh có các thụ thể nội tiết là estrogen receptor (viết tắt là ER) và progesterone receptor (viết tắt là PR). Các nội tiết tố nữ bao gồm estrogen và progesterone giúp các tế bào vú khỏe mạnh phát triển và thực hiện chức năng bằng cách gắn kết với các thụ thể nội tiết này.
Ung thư vú (UTV) là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ nhiều nước trên thế giới và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong số các nguyên nhân tử vong do ung thư ở nữ. Tại Việt Nam, theo thống kê năm 2018 có hơn 166.000 trường hợp mới mắc UTV với tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 29,9/100.000 dân. Điều trị UTV là điều trị đa mô thức với sự kết hợp của phẫu thuật, hoá chất, xạ trị, nội tiết và các phương pháp điều trị nhắm trúng đích. Trong đó, điều trị nội tiết là liệu pháp điều trị nhẹ nhàng và đem lại hiệu quả tốt đối với bệnh nhân UTV có thụ thể nội tiết dương tính. Cùng tìm hiểu về liệu pháp nội tiết trong điều trị UTV qua một số câu hỏi sau:
Ung thư vú là một trong số loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Tỷ lệ ung thư vú nói chung sẽ tăng gấp đôi vào năm 2040 và thường xảy ra ở những phụ nữ trẻ hơn. Bây giờ hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải tập trung nỗ lực của mình vào việc tìm cách để giảm nguy cơ ung thư vú.