Bệnh viện Ung bướu Hà Nội - Nơi gửi gắm niềm tin và hy vọng
22/06/2024 - 03:37
Ung thư nội mạc tử cung là loại ung thư khởi phát từ lớp tế bào lót mặt trong của tử cung, gọi là lớp nội mạc. Ung thư xảy ra khi các tế bào phát triển vượt quá khả năng kiểm soát của cơ thể. Tế bào ung thư nội mạc tử cung có thể lan tới các cơ quan khác của cơ thể (ví dụ như gan, phổi) và phát triển tại đó. Tình trạng này gọi là di căn xa.
Tử cung là cơ quan hình quả lê nằm trong chậu hông, là nơi mang thai. Lớp nội mạc lót mặt trong cùng của tử cung. Khoảng 4 tuần một lần, nội tiết tố nữ sẽ khiến cho lớp nội mạc dày lên và bong ra ngoài âm đạo tạo thành kinh nguyệt.
Có rất nhiều loại ung thư nội mạc tử cung khác nhau tùy thuộc vào loại tế bào ung thư. Một số loại rất hiếm gặp. Loại thường gặp nhất là ung thư biểu mô tuyến. Khối u được tạo thành từ các tế bào tuyến trông giống như nội mạc bình thường.
Bệnh nhân mắc ung thư nội mạc tử cung thường đến khám với các triệu chứng như chảy máu, rong kinh, khí hư âm đạo; đau và/hoặc sờ thấy khối ở vùng bụng dưới; hoặc gầy sút cân bất thường. Các bác sỹ sẽ hỏi bệnh và khám lâm sàng để đưa ra chẩn đoán.
Nếu có triệu chứng nghi ngờ ung thư nội mạc tử cung, các bác sỹ sẽ chỉ định thêm các xét nghiệm cần thiết như:
Siêu âm tử cung buồng trứng qua đường âm đạo: Trong trường hợp này, một đầu dò siêu âm sẽ được đặt trong âm đạo, phát ra sóng siêu âm và thu nhận lại hồi âm từ các mô tế bào. Những hồi âm này sẽ được thể hiện dưới dạng hình ảnh trên máy tính. Những hình ảnh này có thể cho thấy khối u trong lớp nội mạc tử cung, hoặc dày niêm mạc tử cung. Đây có thể là dấu hiệu của ung thư nội mạc tử cung. Siêu âm cũng có thể đánh giá mức độ xâm lấn lớp cơ của ung thư.
Soi tử cung: Một ống soi sẽ được dùng để quan sát buồng tử cung. Các bác sỹ sẽ bơm nước muối sinh lý để quan sát lớp nội mạc rõ hơn, từ đó phát hiện và lấy bỏ những phần bất thường. Thuốc tê sẽ được sử dụng nhưng bệnh nhân vẫn hoàn toàn tỉnh táo.
Hút buồng tử cung: Các bác sỹ sẽ lấy một phần nội mạc để làm xét nghiệm tìm tế bào ung thư. Các bác sỹ sẽ đưa một ống nhỏ vào buồng tử cung để hút ra các mảnh nội mạc tử cung. Đây là xét nghiệm khẳng định chắc chắn ung thư nội mạc tử cung.
Nạo buồng tử cung: Xét nghiệm này được chỉ định khi hút buồng tử cung chưa khẳng định ung thư (do chưa đủ bệnh phẩm, hoặc kết quả chưa rõ ràng). Các bác sỹ sẽ mở tử cung qua cổ tử cung, sử dụng một dụng cụ đặc biệt nạo buồng tử cung, lấy các mảnh nội mạc tử cung. Thuốc gây mê có thể được sử dụng.
Tế bào ung thư trong mẫu bệnh phẩm sẽ được phân độ. Đây là thông tin quan trọng giúp các bác sỹ đánh giá khả năng phân chia và lan tràn của ung thư. Phân độ mô học từ 1 đến 3 dựa trên mức độ giống nhau của tế bào ung thư so với tế bào lành. Tế bào ung thư càng khác xa so với tế bào lành thì độ càng cao (độ 3) và có xu hướng phân chia và phát triển nhanh hơn. Các bác sỹ sẽ căn cứ vào đó để lựa chọn chiến lược điều trị tối ưu.
Chẩn đoán giai đoạn là hết sức cần thiết để các bác sỹ đưa ra chiến lược điều trị phù hợp. Phân chia giai đoạn dựa trên mức độ xâm lấn và lan tràn của ung thư về mặt tại chỗ (tử cung và các cơ quan lân cận) cũng như về mặt toàn thân (di căn xa).
Ung thư nội mạc tử cung được chia làm 4 giai đoạn. Giai đoạn càng sớm, ung thư xâm lấn càng ít.
Có nhiều phương pháp điều trị ung thư nội mạc tử cung.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chủ yếu cho hầu hết bệnh nhân, tuy nhiên trong một vài trường hợp, các phương pháp khác có thể được sử dụng. Lựa chọn chiến lược điều trị đối với bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung dựa trên các yếu tố:
● Giai đoạn và độ mô học của ung thư
● Khả năng chữa khỏi hoặc điều trị triệu chứng bệnh của từng phương pháp
● Tuổi
● Toàn trạng và các bệnh đi kèm của bệnh nhân
● Đáp ứng điều trị của bệnh nhân và tác dụng phụ của điều trị
Hầu hết bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung đều cần phải phẫu thuật.
Phẫu thuật cắt tử cung toàn bộ (bao gồm cắt thân tử cung và cổ tử cung) là phương pháp điều trị phổ biến nhất. Có rất nhiều cách thực hiện phẫu thuật này. Đôi khi các bác sỹ sẽ phối hợp cắt buồng trứng và vòi trứng 2 bên ngay trong cùng một cuộc mổ, kèm theo đó là vét hạch lân cận để tìm tế bào ung thư di căn nếu có.
Mỗi phẫu thuật đều có thể có những nguy cơ tai biến và biến chứng. Hãy trao đổi với bác sỹ về những nguy cơ có thể xảy ra và thông báo với bác sỹ những vấn đề phát sinh nếu có.
Xạ trị sử dụng chùm tia năng lượng cao để diệt tế bào ung thư. Đây là phương pháp điều trị giúp tiêu diệt tế bào ung thư có thể còn sót lại sau phẫu thuật. Có 2 phương pháp xạ trị chính:
● Xạ áp sát: Một ống nhỏ chứa phóng xạ sẽ được đưa vào âm đạo. Đây là phương pháp thường dùng để điều trị phần trên của âm đạo sau phẫu thuật. Xạ áp sát không gây tổn thương cơ quan lân cận như bàng quang hay trực tràng nhiều như xạ ngoài.
● Xạ ngoài: Điều trị xạ ngoài gần giống như chụp X-quang, nhưng lâu hơn, thường kéo dài khoảng 5 ngày mỗi tuần trong 4 đến 6 tuần. Thời gian cho mỗi lần điều trị rất nhanh, tuy nhiên việc phải đến bệnh viện hàng ngày có thể gây mệt mỏi cho bệnh nhân.
● Thay đổi da trên diện xạ trị
● Cảm thấy rất mệt mỏi
Hầu hết các tác dụng phụ trên sẽ hết sau kết thúc điều trị, số ít còn lại có thể kéo dài hơn.
Hoá trị sử dụng hoá chất để diệt tế bào ung thư. Hoá chất được đưa vào cơ thể thông qua đường truyền tĩnh mạch hoặc đường uống, từ đó vào máu và được đưa đi khắp cơ thể. Hoá chất được sử dụng theo các chu kỳ, giữa các chu kỳ lại có các quãng nghỉ. Đa số trường hợp các bác sỹ chỉ định phối hợp 2 hoá chất trở lên. Điều trị hoá chất có thể kéo dài nhiều tháng.
Điều trị hoá chất có thể khiến người bệnh cảm thấy rất mệt mỏi, ăn uống kém, rụng tóc. Tuy nhiên, các tác dụng phụ trên thường giảm theo thời gian sau kết thúc điều trị.
Có nhiều cách để giảm thiểu các tác dụng không mong muốn của hoá trị.
● Điều trị nội tiết: Phương pháp này sử dụng nội tiết tố hoặc các thuốc kháng nội tiết để điều trị ung thư. Các thuốc này không giống các thuốc điều trị triệu chứng của mãn kinh.
● Điều trị đích: Thuốc điều trị đích tác động chủ yếu lên tế bào ung thư, mặt khác lại ít gây ảnh hưởng lên các tế bào lành. Phương pháp này có thể đạt hiệu quả tốt dù cho các phương pháp khác thất bại. Các thuốc điều trị đích có các tác dụng không mong muốn khác và thường không nặng như tác dụng phụ khi điều trị hoá chất.
● Điều trị miễn dịch: Miễn dịch liệu pháp là phương pháp tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể giúp hệ miễn dịch tấn công tế bào ung thư. Đây là phương pháp có thể được sử dụng trong ung thư nội mạc tử cung tiến triển.
Các thử nghiệm lâm sàng
Các thử nghiệm lâm sàng là một cách để tiếp cận với các phương pháp mới nhất điều trị ung thư. Nếu bác sỹ có thể tìm ra thử nghiệm lâm sàng phù hợp, người bệnh có thể lựa chọn tham gia. Trong trường hợp người bệnh đồng ý tham gia, họ cũng có thể dừng bất cứ lúc nào.
Các phương pháp điều trị không chính thống
Người bệnh có thể nghe nói tới các phương pháp điều trị ung thư hoặc điều trị triệu chứng khác. Các phương pháp này thường không chính thống, bao gồm vitamin, thảo dược, các chế độ ăn kiêng.
Một số phương pháp kể trên được cho là có tác dụng, tuy nhiên cũng có nhiều phương pháp chưa chứng minh được hiệu quả điều trị. Một số thậm chí có thể gây hại. Người bệnh cần hỏi ý kiến bác sỹ về các phương pháp này muốn sử dụng.
Người bệnh sau khi kết thúc điều trị vẫn cần phải đi khám định kỳ. Tần suất khám định kỳ thưa hay mau phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn bệnh. Bệnh nhân ung thư giai đoạn sớm cần đi khám thưa hơn, trong khi tần suất khám lại của bệnh nhân giai đoạn muộn hơn cần phải dày hơn. Trong mỗi lần đến khám lại, các bác sỹ sẽ hỏi bệnh, khám lâm sàng để phát hiện các triệu chứng nghi ngờ ung thư tái phát hay tác dụng không mong muốn sau điều trị. Theo thời gian, tần suất khám định kỳ sẽ thưa hơn.
Nguồn: Dịch từ www.cancer.org Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ
Đường dẫn: If You Have Endometrial Cancer
Biên dịch: BS. Phạm Quang Huy, Khoa Ngoại Vú - Phụ khoa
Hiệu đính: ThS.BS. Nguyễn Thanh Hằng, Phòng HTQT - NCKH