Nốt ruồi, vết loét, u cục hoặc những biến đổi bất thường trên da về hình thái hoặc cảm giác có thể là một dấu hiệu của ung thư hắc tố da hoặc một loại ung thư da khác, hoặc đó là dấu hiệu cảnh báo ung thư có thể xảy ra.
Ung thư mắt là loại ung thư phát triển ở trong mắt. Ung thư khởi phát khi các tế bào phát triển vượt quá sự kiểm soát của cơ thể. Tế bào ung thư có thể lan tràn đến các bộ phận khác của cơ thể. Đôi khi các tế bào ung thư trong mắt có thể di căn đến gan và phát triển ở đó. Điều này được gọi là di căn. Ung thư luôn được đặt tên theo vị trí khởi phát. Vì vậy, khi ung thư mắt lan tràn đến gan (hoặc bất cứ một cơ quan nào khác), nó vẫn là ung thư mắt.
U GIST là gì?
GIST (phát âm là “jist”) là một loại ung thư không phổ biến bắt đầu ở ống tiêu hóa, còn được gọi là hệ tiêu hóa (GI). Đây là con đường bên trong cơ thể chúng ta để thức ăn đi qua. Hầu hết GIST bắt đầu ở dạ dày hoặc ruột non, nhưng chúng cũng có thể bắt đầu ở thực quản (đoạn nối họng đến dạ dày), đại tràng, trực tràng hoặc những vị trí khác.
Ung thư vú ở trẻ vị thành niên rất hiếm gặp. Từ năm 2012 đến 2016, tỉ lệ mắc ung thư vú ở trẻ gái tuổi từ 15 đến 19 ở Mỹ là 0.1/100000, tương đương với 1 trên 1 triệu trẻ mắc bệnh.
Mãn kinh xảy ra khi buồng trứng ở người phụ nữ ngừng phóng thích trứng.
Trong mãn kinh tự nhiên, quá trình sản xuất estrogen và progesteron của cơ thể suy giảm, gây ra hiện tượng kinh nguyệt không đều và cuối cùng dừng hẳn. Thông thường, mãn kinh bắt đầu xảy ra ở độ tuổi 50, tuy nhiên cũng có thể sớm hoặc muộn hơn.
Đối với phụ nữ mắc ung thư, mãn kinh có thể bắt đầu sớm hơn. Chẳng hạn, một số phương pháp điều trị có thể khiến buồng trứng ngừng hoạt động. Tình trạng này được gọi là mãn kinh sớm.
Nếu bạn là bệnh nhân ung thư đã điều trị ổn định, dù là nam hay nữ, việc sinh con có thể là một quyết định khó khăn. Bạn và bạn đời của mình cần phải suy nghĩ đến rất nhiều vấn đề trước khi quyết định có thêm một thành viên trong gia đình.
Ung thư thận khởi phát ở thận và còn được gọi là ung thư biểu mô tế bào thận hoặc viết tắt là RCC. Ung thư khởi phát khi các tế bào trong thận phát triển ngoài tầm kiểm soát và lấn át các tế bào bình thường. Các tế bào ung thư có thể lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Các tế bào ung thư trong thận đôi khi có thể di chuyển đến xương và phát triển ở đó, đây được gọi là di căn. Các tế bào ung thư ở nơi mới sẽ trông giống như các tế bào từ thận.
Ung thư xuất phát từ bàng quang được gọi là ung thư bàng quang. Ung thư được hình thành khi các tế bào ở bàng quang phát triển một cách mất kiểm soát và lấn át các tế bào bình thường khác.
Nội soi đường tiêu hoá trên là gì?
Nội soi đường tiêu hoá trên là một thủ thuật bác sĩ sử dụng để xem xét lớp niêm mạc bên trong của đường tiêu hóa trên (thực quản, dạ dày và tá tràng, là phần đầu tiên của ruột non). Xét nghiệm này đôi khi còn được gọi là nội soi thực quản - dạ dày - tá tràng hoặc EGD. Thủ thuật này được thực hiện bằng một ống nội soi, là một ống nhỏ, đàn hồi, có đèn chiếu sáng và một máy quay phim nhỏ ở đầu ống soi. Ống được đưa vào qua miệng, xuống cổ họng và vào thực quản, dạ dày và tá tràng.
Nội soi ổ bụng là gì?
Nội soi ổ bụng là một thủ thuật bác sĩ sử dụng để quan sát bên trong bụng và khung chậu. Điều này được thực hiện bằng một ống nội soi ổ bụng, là một ống mỏng, đàn hồi, có đèn chiếu sáng và một máy quay video nhỏ ở đầu ống soi. Ống soi được đưa vào xuyên qua thành bụng gần rốn bằng một vết rạch nhỏ. Một vết rạch thứ hai hoặc thứ ba cũng có thể được thực hiện ở các phần khác của bụng để đưa các dụng cụ khác vào. Nội soi ổ bụng còn được gọi là phẫu thuật xâm lấn tối thiểu hoặc phẫu thuật lỗ khóa.
Các bác sỹ sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh (CĐHA) để chụp lại hình ảnh bên trong cơ thể bệnh nhân. Các xét nghiệm này có thể được sử dụng để phát hiện ung thư, đánh giá ung thư đã lan tràn tới đâu và giúp tìm ra phương pháp điều trị hiệu quả.
Điện quang can thiệp (ĐQCT) là phương pháp dùng để chẩn đoán, điều trị ung thư cũng như các bệnh lý khác mà không cần một cuộc phẫu thuật lớn. Trong quá trình tiến hành ĐQCT, bác sỹ quan sát được bên trong cơ thể bệnh nhân bằng các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh (CĐHA) như siêu âm, cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ. Tiếp theo, bác sỹ sử dụng những thiết bị nhỏ (ví dụ kim tiêm, ống dẫn) để thực hiện thủ thuật hoặc điều trị ở vị trí chính xác. Trong suốt quá trình thực hiện thủ thuật, bác sỹ có thể đưa các dụng cụ vào bên trong cơ thể bệnh nhân thông qua các vết cắt rất nhỏ, thậm chí nhỏ như một lỗ kim.